CÔNG TY LUẬT TNHH MỘT THÀNH VIÊN LEGAL DING

ĐIỀU KIỆN ĐĂNG KÍ KẾT HÔN LÀ GÌ? CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN?

Ngày đăng: 06/09/2022

ĐIỀU KIỆN ĐĂNG KÍ KẾT HÔN LÀ GÌ? PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN?

Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Như vậy, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn được Luật hôn nhân và gia đình quy định và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền thì việc kết hôn đó mới được công nhận là hợp pháp. Vậy điều kiện kết hôn là gì, pháp luật Việt Nam quy định thế nào về điều kiện kết hôn, hãy cùng Công ty Luật Legal Ding phân tích làm rõ một số quy định của pháp luật hôn nhân gia đình về điều kiện kết hôn.

  1. Điều kiện kết hôn

Điều kiện kết hôn là điều kiện do pháp luật quy định mà các bên nam, nữ cần phải có mới có quyền được kết hôn. Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

Điều 8. Điều kiện kết hôn

  1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
  2. a)Nam từ đủ20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
  3. b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
  4. c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
  5. d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

Như vậy, khi yêu cầu đăng kí kết hôn, nam nữ chưa đáp ứng những điều kiện trên thì cơ quan đăng kí kết hôn có quyền từ chối đăng kí kết hôn cho họ. Trong trường hợp nam, nữ đã được đăng kí kết hôn nhưng một trong các bên hoặc cả hai bên vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì việc kết hôn đó là trái pháp luật và Toà án có quyền huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu.

1.1 Nam, nữ phải đủ tuổi kết hôn

Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới đủ tuổi kết hôn”.

Như vậy, pháp luật Việt Nam chỉ quy định độ tuổi tối thiểu nam, nữ được phép kết hôn mà không quy định tuổi tối đa. Quy định này trước hết xuất phát từ cơ sở khoa học. Các nghiên cứu trong lĩnh vực y học đã chỉ rõ phải đạt đến độ tuổi này nam, nữ mới phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý. Do vậy, họ có thể sinh ra những đứa con khỏe mạnh về thể chất và trí tuệ, đồng thời, họ đủ trưởng thành để thực hiện các nghĩa vụ của người làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ… Ngoài ra, quy định này còn dựa trên điều kiện kinh tế – xã hội, phong tục, tập quán và truyền thống, văn hóa của dân tộc. Vì thế, quy định về tuổi kết hôn này góp phần tạo dựng lên những cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền vững.

Trên thực tế, vẫn có những trường hợp nam nữ lấy vợ lấy chồng khi chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, hiện tượng này được gọi là tảo hôn. Tảo hôn không chỉ là việc nam nữ kết hôn trước tuổi luật định mà còn bao gồm cả trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước tuổi luật định. Theo điểm b khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014, “tảo hôn” được xác định là một trong các hành vi bị cấm, vì vậy, kết hôn trước tuổi luật định sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

1.2 Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ

Điểm b khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định: “việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định

Tự nguyện trong kết hôn trước hết phải thể hiện bằng ý chí chủ quan của người kết hôn. Hai bên nam, nữ yêu thương nhau và tự mình quyết định xác lập quan hệ hôn nhân nhằm mục đích xây dựng gia đình. Ý chí này của mỗi bên nam, nữ không bị tác động bởi một bên hoặc của người thứ ba.

Ngoài ra, tự nguyện kết hôn còn thể hiện bằng dấu hiệu khách quan. Người kết hôn phải bày tỏ mong muốn được kết hôn với nhau trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua hành vi đăng ký kết hôn. Vì thế, khi đăng ký kết hôn yêu cầu phải có mặt của hai bên nam, nữ.

Quyền kết hôn là quyền gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân, do vậy việc kết hôn phải do người kết hôn tự nguyện quyết định, là cơ sở để xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình không quy định việc đại diện trong kết hôn đồng thời cấm hành vi cưỡng ép, lừa dối, cản trở việc kết hôn làm cho việc kết hôn không đảm bảo sự tự nguyện.

1.3 Người kết hôn không phải là người mất năng lực hành vi dân sự

Điểm c, khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định nam nữ kết hôn phải là người  “ không bị mất năng lực hành vi dân sự”

Khoản 1 Điều 22 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định: “ Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”. Như vậy, tại thời điểm kết hôn mà một người có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự thì không đủ điều kiện kết hôn.

Quy định này đảm bảo tính logic với quy định về sự tự nguyện kết hôn. Bởi vì, người mất năng lực hành vi dân sự thì không thể tự nguyện bày tỏ ý chí trong việc kết hôn. Do vậy, việc chuyển hóa từ một điều cấm thành một điều kiện đối với người kết hôn là thể hiện rõ tính nhân văn của điều kiện kết hôn này.

1.4 Người kết hôn phải là hai người khác giới tính

Khoản 2 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”

Điều này có nghĩa, hôn nhân phải là sự “kết hợp” giữa nam và nữ. Thực tế, ở Việt Nam những năm gần đây có xuất hiện tình trạng những người cùng giới tính xác lập việc sống chung với nhau. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng không cấm người cùng giới sống chung với nhau như vợ chồng. Vì vậy, việc sống chung giữa hai người cùng giới tính về nguyên tắc không bị coi là trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu một người đang có vợ, có chồng nhưng lại chung sống với người khác cùng giới tính với mình thì giải quyết như thế nào, trường hợp này có xác định là người đang có vợ, có chồng vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng hay không?  Đây là vấn đề mà pháp luật hiện hành vẫn còn bỏ ngỏ?

1.5 Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn

Điểm d khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”. Pháp luật quy định các trường họp cấm kết hôn là nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; giữ gìn thuần phong mỹ tục của người Việt Nam đối với đời sống hôn nhân và gia đình, góp phần duy trì và bảo tồn nòi giống, thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội.

Điểm a,b,c,d Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định cấm các hành vi sau đây:

  1. a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
  2. b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
  3. c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười đang có chồng, có vợ;
  4. d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”

Cấm kết hôn giả tạo, quy định điều cấm thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền tự do kết hôn của cá nhân, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc.

Cấm kết hôn đối với người đang có vợ, có chồng hoặc cấm người chưa có vợ, có chồng kết hôn với người đang có vợ, có chồng. Người đang có vợ, có chồng là người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân được Nhà nước thừa nhận. Theo quy định Luật hôn nhân và gia đình 2014, các trường họp được coi là đang có vợ, có chồng bao gồm:

Người đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và quan hệ hôn nhân đó vẫn đang tồn tại (chưa chấm dứt hôn nhân do sự kiện ly hôn, hoặc một bên chết hay một bên có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết);

Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 3/01/1987 và đang chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Theo quy định tại Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình 2014:“Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết”.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này thì đối với trường họp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3/01/1987 không đăng ký kết hôn nhưng tuân thủ các điều kiện kết hôn thì vẫn được thừa nhận là vợ chồng.

Như vậy, chỉ những người chưa có vợ, có chồng hoặc đã có vợ, có chồng nhưng hôn nhân trước đã chấm dứt thì mới được phép kết hôn. Nếu người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng thì việc kết hôn đó là trái pháp luật. Quy định điều cấm này nhằm bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, góp phần xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Quy định điều cấm này còn góp phần xóa bỏ chế độ đa thê, giải phóng và nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội.

Quy định về cấm kết hôn đối với người đang có vợ, có chồng được dự liệu từ rất sớm (ngay từ đạo luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta – Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, việc cấm kết hôn này đã được ghi nhận). Từ đó đến nay, trong các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ, điều cấm này luôn luôn là một quy định buộc người kết hôn phải tuân thủ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tình trạng vi phạm điều cấm vẫn còn xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước và ngày một có diễn biến phức tạp hơn. Điều đáng lo ngại là tình trạng vi phạm ngày một tinh vi hơn, làm ảnh hưởng đáng kể đến quyền lợi của những người có quyền lợi liên quan cũng như tác động không tốt đến đời sống hôn nhân và gia đình. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng một trong những nguyên nhân đáng kể làm cho tình trạng vi phạm ngày một gia tăng đó chính là việc xử lý tình trạng vi phạm chưa nghiêm minh cho nên việc phòng ngừa vi phạm kém hiệu quả.

Do vậy, để nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng được bảo đảm thì cần phải làm tốt hơn nữa việc kiểm tra các quy định về điều kiện kết hôn thông qua thủ tục đăng ký kết hôn và xử lý nghiêm minh các trường họp vi phạm.

Cấm kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời.

Những người có cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau (khoản 17 Điểu 3 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014).

Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. Vì vậy, cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời được xác định cụ thể như sau: cấm kết hôn giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; cấm kết hôn giữa bác ruột, chú ruột, cậu ruột với các cháu gái, bác ruột, cô ruột, dì ruột với các cháu trai và cấm kết hôn giữa anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì với nhau.

Việc cấm kết hôn giữa những người có mối liên hệ huyết thống trong phạm vi trên là hoàn toàn phù hợp. Quy định này góp phần duy trì và bảo tồn nòi giống, giúp gia đình thực hiện tốt chức năng sinh đẻ, nhằm thúc đậy sự phát triển của xã hội. Bởi vì, dựa trên kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực y học, các nhà khoa học đã chỉ rõ, việc kết hôn gần gũi về huyết thống trong phạm vi trực hệ hoặc ba đời sẽ để lại nhiều di chứng cho thế hệ đời sau. Thế hệ con cái của những cuộc hôn nhân này thường hay mắc các bệnh về nhiễm sắc thể, tỷ lệ tử vong sau sinh cao. Điều này là nguyên nhân làm suy giảm giống nòi, ảnh hưởng đến chất lượng dân số.

Thực tế cho thấy ở Việt Nam hiện nay, việc kết hôn giữa những người có quan hệ gần gũi về huyết thống trong phạm vi luật cấm vẫn còn tiếp diễn ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là do các hủ tục lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số. Vì thế, để giảm thiểu tình trạng này cần phải phát huy tốt hơn nữa việc xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu đối với đời sống hôn nhân và gia đình.

Cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

Ngoài việc cẩm kết hôn giữa nhưng người có quan hệ huyết thống trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, Luật hôn nhân và gia đình 2014 còn cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Trái lại với quan điểm cho rằng, việc quy định điều cấm này là không cần thiết. Do đó, ngay cả khi giữa những người có ỉhối liên hệ trực hệ không gắn kết bởi tính huyết thống vẫn bị cấm kết hôn. Đây là quy định điều cấm phù hợp với đạo đức, văn hóa của người Việt Nam. Do vậy, quy định điều cấm góp phần bảo vệ những nét đẹp mang giá trị văn hóa, truyền thống của người Việt Nam đối với đời sống , hôn nhân và gia đình, đồng thời góp phần ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình.

Tác giả: Lê Thị Nhi

 

CÔNG TY LUẬT TNHH MỘT THÀNH VIÊN LEGAL DING

Địa chỉ: 125 Bế Văn Đàn, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
Email: luatlegalding@gmail.com
Điện thoại: 0935817456 - 0903891189

Chi nhánh

Dịch vụ